Các phiên bản Boeing_767

Dòng máy bay 767 có ba phiên bản chiều dài khác nhau.[24] Các phiên bản theo thứ tự từ ngắn nhất đến dài nhất là 767-200, 767-300, và 767-400ER.[24][118] Các phiên bản tầm bay xa gồm có 767-200ER và 767-300ER,[118] phiên bản chở hàng gồm có mẫu 767-300F và những chiếc 767-200 và 767-300 được hoán cải để chuyên chở hàng hóa.[119]

Khi gọi tên những phiên bản khác nhau, Boeing và các hãng hàng không thường rút gọn tên dòng máy bay (767) và tên phiên bản (ví dụ -200 hay -300) thành dạng ngắn gọn (ví dụ "762" hay "763"[120]). Phía sau chỉ số sức chứa có thể có hoặc không có ký hiệu tầm bay.[120][121] Hệ thống định danh chủng loại máy bay của Tổ chức Hàng không Dân dụng Quốc tế (ICAO) cũng có cách gọi tên tương tự, chỉ thêm một chữ cái vào phía trước để xác định nhà sản xuất của máy bay;[122] theo đó tất cả các mẫu 767-200 và 767-300 được gọi chung là "B762" và "B763" theo thứ tự, và mẫu 767-400ER được gọi là "B764."[122]

767-200

767-200 của United Airlines tại sân bay Berlin Tegel, Berlin, Đức vào ngày 30 tháng 12 năm 2012

Boeing 767-200 là mẫu máy bay đầu tiên trong dòng 767, được United Airlines đưa vào khai thác đầu tiên vào năm 1982.[3] Loại máy bay này chủ yếu được các hãng hàng không Hoa Kỳ sử dụng trên các đường bay quốc nội giữa các thành phố lớn như từ Los Angeles đến Washington.[3][52] Vào ngày 1 tháng 2 năm 1985, chiếc 767-200 của Trans World Airlines trở thành chiếc máy bay đầu tiên bay ETOPS vượt qua Đại Tây Dương, theo quy định phạm vi 90 phút.[44][52] Có tổng cộng 128 chiếc loại này được đặt và giao hàng.[1] Tính đến tháng 7 năm 2016, có 44 chiếc chở khách và chở hàng (hoán cải) vẫn đang hoạt động.[123] Mẫu này cạnh tranh với chiếc Airbus A300 và A310.[124]

Mẫu 767-200 bị dừng sản xuất vào cuối thập niên 1980 khi mẫu tầm bay xa là 767-200ER ra mắt và thay thế nó.[41] Một số chiếc 767-200 được nâng cấp lên để đáp ứng các tiêu chí về tầm bay xa.[52] Năm 1998, Boeing đưa ra đề nghị chuyển đổi chiếc 767-200 thành phiên bản chở hàng 767-200SF (Special Freighter),[125] và ủy quyền cho Israel Aerospace Industries thực hiện việc chuyển đổi này từ năm 2005.[126] Việc chuyển đổi gồm có lắp đặt cửa chất dỡ hàng, gia cố sàn khoang chính và lắp đặt các thiết bị giám sát tải trọng.[119] Chiếc 767-200SF được coi như là bản thay thế cho mẫu máy bay chở hàng Douglas DC-8.[125]

767-2C

Bài chi tiết: Boeing KC-46 Pegasus

Boeing 767-2C là chiếc máy bay vận chuyển hàng hóa thương mại dựa trên mẫu 767-200 với thiết kế cánh của mẫu -300 và buồng lái được nâng cấp.[127] Theo hợp đồng ký kết với Không quân Hoa Kỳ năm 2011, Boeing lắp ráp bốn chiếc máy bay thử nghiệm – hai chiếc 767-2C và hai chiếc KC-46 – mẫu máy bay tiếp nhiên liệu trên không dựa trên chiếc 767-2C.[127] Ngày 29 tháng 12 năm 2014, chiếc 767-2C đầu tiên trong chương trình KC-46 của Không quân Hoa Kỳ đã cất cánh lần đầu tiên.[127] Chiếc 767-2C thứ hai hoàn thành chuyến bay đầu tiên vào ngày 25 tháng 4 năm 2016.[128] Tính đến tháng 2 năm 2017, Không quân Hoa Kỳ đã đặt mua 38 chiếc KC-46 trong tổng số 179 chiếc đơn vị này dự định sẽ mua trong tương lai.[1][128]

767-200ER

Máy bay 767-200ER của Aeroméxico trong màu sơn SkyTeam hạ cánh xuống sân bay quốc tế McCarran

767-200ER là mẫu máy bay tầm xa dựa trên mẫu -200 và được khai thác đầu tiên bởi hãng El Al vào năm 1984.[42] Nhờ vào bể nhiên liệu trung tâm mới được bổ sung và trọng lượng cất cánh tối đa lớn hơn, đến 179.169 kg, chiếc máy bay có thể bay được xa hơn.[41][43] Ban đầu mẫu máy bay được chào bán có động cơ tương tự như trên chiếc 767-200; sau này có thêm các động cơ mạnh mẽ hơn là Pratt & Whitney PW4000General Electric CF6.[41] 767-200ER là mẫu đầu tiên trong dòng 767 hoàn thành một chuyến bay thẳng vượt Đại Tây Dương, và lập kỷ lục về quãng đường bay thực hiện bởi một chiếc máy bay phản lực hai động cơ vào ngày 17 tháng 4 năm 1988, trên chuyến bay của hãng Air Mauritius từ Halifax, Nova Scotia đến Port Louis, Mauritius, một quãng đường dài 16.200 km.[3] Các hãng hàng không quốc tế sau đó tìm mua mẫu 767-200ER bởi họ cần một chiếc máy bay thân rộng nhỏ hơn để thực hiện các chuyến bay đường dài, ví dụ như từ New York đến Bắc Kinh.[3][43] Tổng cộng có 121 lượt đặt và giao hàng cho mẫu này.[1] Tính đến tháng 7 năm 2016, có 32 chiếc máy bay loại này, cả chở hàng và chở khách, đang hoạt động thương mại.[123] Thời điểm ra mắt, mẫu máy bay này cạnh tranh trực tiếp với chiếc Airbus A300-600R và A310-300.[47]

767-300

Boeing 767-300 là mẫu 767 thân dài đầu tiên, được đưa vào khai thác kể từ năm 1986.[42] Mẫu 767-300 có chiều dài 54,9 m, dài hơn 6,43 m so với mẫu 767-200 nhờ kéo dài phần thân ngay trước và ngay sau cánh máy bay.[41] Nhờ thiết kế chiếc 767 ban đầu có tiềm năng nâng cấp, người ta giữ lại động cơ, cánh và hầu hết các hệ thống trên mẫu -200 để áp dụng cho mẫu -300.[41] Các thay đổi gồm có việc lắp đặt thêm một cánh cửa ra vào ở giữa máy bay, phía trước cánh bên trái.[24] Sau này, các động cơ Pratt & Whitney PW4000 và Rolls-Royce RB211 ra mắt, mạnh mẽ hơn các động cơ trước đó.[47] Khả năng chuyên chở lớn hơn của mẫu 767-300 được tận dụng trên các đường bay đông khách nối liền châu Á và châu Âu.[129] Boeing đã giao 104 chiếc 767-300[1] và tính đến tháng 7 năm 2016, có 54 chiếc vẫn đang hoạt động.[123] Mẫu này cạnh tranh với chiếc Airbus A300.[47]

767-300ER

Chiếc 767-300ER của All Nippon Airways đang hạ cánh xuống sân bay quốc tế Narita

767-300ER là mẫu tầm bay xa của chiếc 767-300, thực hiện chuyến bay thương mại đầu tiên với hãng American Airlines vào năm 1988.[42] Nó có thể bay được xa hơn nhờ có sức chứa nhiên liệu lớn hơn và trọng lượng cất cánh tối đa cao hơn – 184.612 kg.[47] Các cải tiến trong thiết kế cho phép đưa con số này lên 186.880 kg vào năm 1993.[47] Mẫu máy bay sử dụng một trong các loại động cơ Pratt & Whitney PW4000, General Electric CF6 hoặc Rolls-Royce RB211,[47] chủ yếu thực hiện các đường bay dài như từ Los Angeles đến Frankfurt.[48] Sự kết hợp giữa sức chứa lớn và tầm bay xa khiến mẫu 767-300ER trở nên hấp dẫn đối với các hãng hàng không.[118] Nhờ đó -300ER trở thành mẫu máy bay 767 thành công nhất, với doanh số cao hơn tất cả các phiên bản khác gộp lại.[130] Tính đến tháng 2 năm 2017, Boeing đã giao 583 chiếc 767-300ER.[1] Vào tháng 7 năm 2016, có 441 chiếc trong số đó đang hoạt động.[123] Mẫu 767-300ER cạnh tranh trực tiếp với Airbus A330-200.[131]

767-300F

Mẫu 767-300F là phiên bản chở hàng dựa trên mẫu 767-300ER, được khai thác bởi các hãng vận chuyển hàng hóa mà mở đầu là UPS Airlines vào năm 1995.[132] Boeing 767-300F có thể chứa được 24 pallet tiêu chuẩn (220 cm × 320 cm) ở khoang chính và 30 thùng hàng LD2 ở khoang chở hàng,[24] với tổng dung tích hàng hóa 438 m3.[133] Chiếc máy bay có một cửa ở khoang chính cho các phi công,[134] hai cửa bên trái và một cửa bên phải sử dụng để chất dỡ hàng ở khoang hàng hóa.[24] Boeing đã giao một chiếc -300F phiên bản thị trường cho Asiana Airlines vào ngày 23 tháng 8 năm 1996; mẫu này được trang bị hệ thống quản lý hàng hóa với tùy chọn lắp đặt hệ thống làm lạnh và các trang thiết bị dành cho phi hành đoàn.[57] Tính đến tháng 2 năm 2017, hãng đã giao 123 chiếc 767-300F và đang lắp đặt 69 chiếc.[1] Đến tháng 7 năm 2016, có 134 chiếc cả phiên bản hàng hóa lẫn hoán cải từ bản chở khách đang hoạt động.[123]

Tháng 6 năm 2008, All Nippon Airways nhận được chiếc 767-300BCF (Boeing Converted Freighter) đầu tiên. Đây là bản hoán cải từ chiếc 767 phiên bản chở khách.[135] Việc chuyển đổi này được thực hiện lần đầu tiên bởi ST Aerospace Services tại Singapore, bao gồm việc lắp đặt thêm cửa hàng hóa trên khoang chính, gia cố sàn khoang chính và bổ sung các thiết bị giám sát hàng hóa và độ an toàn.[119] Kể từ đó, Boeing, Israel Aerospace Industries và Wagner Aeronautical cũng bắt đầu thực hiện chương trình chuyển đổi này cho các máy bay trong dòng 767-300.[136]

767-400ER

Chiếc 767-400ER của United Airlines đang tiếp cận sân bay Frankfurt

Boeing 767-400ER là mẫu máy bay đầu tiên của hãng được nâng cấp chiều dài đến hai lần,[137] bước vào hoạt động thương mại lần đầu vào năm 2000 với hãng Continental Airlines.[42] Nó có chiều dài 61,3 m, dài hơn 6,43 m so với mẫu -300.[138] Cánh máy bay rộng hơn 4,36 m nhờ thêm vào các cánh gập (raked wingtips).[57] Ngoài ra, buồng lái máy bay cũng được cải tiến, bánh đáp được thiết kế lại, và khoang máy bay được nâng cấp theo phong cách Signature Interior.[139] Cấp nguồn cho máy bay là các động cơ Pratt & Whitney PW4000 hoặc General Electric CF6 đời mới.[57]

Cục Hàng không Liên bang phê chuẩn cho mẫu 767-400ER bay ETOPS 180 phút thậm chí trước khi nó đi vào hoạt động.[140] Bởi sức chứa nhiên liệu không thay đổi so với mẫu trước, mẫu 767-400ER có tầm bay 10.418 km,[141] thấp hơn các mẫu tầm bay xa trước đó.[66] Khoảng cách này bằng khoảng cách từ Thâm Quyến đến Seattle.[142] Boeing không phát triển mẫu 767-400, và mẫu tầm xa hơn nữa là 767-400ERX được chào bán vào năm 2000 nhưng bị hủy bỏ một năm sau đó,[67] khiến cho mẫu 767-400ER là phiên bản duy nhất của mẫu 767 lớn nhất.[58] Kể từ năm 2014, Boeing không còn để mẫu 767-400ER và mẫu -200ER trong bảng giá.[143] Tổng cộng có 37 chiếc máy bay được giao cho hai hãng khách hàng là Continental Airlines (đã sáp nhập với United Airlines) và Delta Air Lines.[1] Tất cả những chiếc máy bay này đều vẫn hoạt động tính đến tháng 7 năm 2016.[123] Một chiếc khác được sử dụng với vai trò là mẫu thử quân sự và sau này trở thành phương tiện vận chuyển VIP.[144] Mẫu này cạnh tranh với chiếc Airbus A330-200.[145]

Quân sự

Boeing 767 còn phục vụ trong quân sự và chính phủ, với vai trò từ giám sát trên không, tiếp nhiên liệu và vận tải chiến lược cho đến vận chuyển VIP. Những chiếc 767 sử dụng trong quân sự thường dựa trên phiên bản bay xa nhất là mẫu 767-200ER.[43][134][146][147]

  • Airborne Surveillance Testbed – ban đầu lấy tên Airborne Optical Adjunct (AOA) là chiếc máy bay được chỉnh sửa từ nguyên mẫu 767-200 cho Quân đội Hoa Kỳ, theo hợp đồng với Bộ Tư lệnh Không quân Chiến lược vào tháng 7 năm 1984.[148] Chiếc đầu tiên cất cánh vào ngày 21 tháng 8 năm 1987, được sử dụng để đánh giá tính hiệu quả khi sử dụng các cảm biến quang học trên không để phát hiện và theo dõi các tên lửa liên lục địa thù địch.[149] Các chỉnh sửa gồm có việc thêm vào một phần gù chạy từ mũi máy bay đến cạnh sau cánh máy bay[148] và một cặp cánh bụng ở thân sau máy bay.[149] Bên trong phần gù là hệ thống dò tìm hồng ngoại có khả năng theo dõi tên lửa đạn đạo.[150] Sau này chiếc máy bay được đổi tên thành Airborne Surveillance Testbed hay AST (Máy bay thử nghiệm giám sát trên không).[151] Khi chương trình AST kết thúc vào năm 2002, chiếc máy bay được cho nghỉ hưu và tháo dỡ.[152]
Máy bay E-767 của Lực lượng Phòng vệ Nhật Bản
  • E-767 – dòng máy bay chỉ huy và cảnh báo trên không của Lực lượng phòng vệ Nhật Bản; nó giống như hệ thống trang thiết bị của chiếc Boeing E-3 Sentry trên một chiếc 767-200ER.[59] Những chỉnh sửa trên chiếc 767-200ER được thực hiện tại Boeing Integrated Defense Systems tại Wichita, Kansas, bao gồm gia cố cấu trúc để lắp đặt thêm một hệ thống radar giám sát trên lưng, sửa đổi khung động cơ, các thành phần điện tử và nội thất khác.[61] Nhật Bản đang sử dụng bốn chiếc E-767, chiếc đầu tiên được giao vào tháng 3 năm 1998.[60]
  • KC-767 Advanced Tanker – dòng máy bay vận chuyển và tiếp nhiên liệu dựa trên mẫu 767-200ER cho cuộc thi máy bay KC-X của Không quân Hoa Kỳ.[71] Mẫu máy bay này là phiên bản nâng cấp của KC-767, ban đầu được chọn làm mẫu máy bay nhiên liệu mới của Không quân Hoa Kỳ năm 2003, lấy tên là KC-767A,[153] nhưng sau đó bị hủy bỏ do các cáo buộc xung đột lợi ích.[71] Chiếc KC-767 Advanced Tanker dựa trên các nghiên cứu và sửa đổi trên chiếc 767-200ER phiên bản chở hàng,[147][154] được trang bị vòi tiếp nhiên liệu điều khiển fly-by-wire, hệ thống tiếp nhiên liệu góc nhìn máy tính và buồng lái màn hình LCD như trên mẫu 767-400ER.[91] Vào tháng 2 năm 2011, Boeing nhận được hợp đồng KC-X để lắp ráp các máy bay tiếp nhiên liệu dựa trên dòng máy bay 767, gọi tên là KC-46A.[90]
Chiếc KC-767A của Không quân Ý
  • KC-767 Tanker Transport – dòng máy bay tiếp nhiên liệu dựa trên mẫu 767-200ER, sử dụng bởi Không quân Ý (Aeronautica Militare)[155] và Lực lượng Phòng vệ Nhật Bản.[73] Boeing Integrated Defense Systems đảm nhiệm việc chỉnh sửa này, gồm có thêm vào một vòi bơm điều khiển fly-by-wire, gia cố cánh tà, thêm các bể nhiên liệu phụ trợ, gia cố cấu trúc chung và chỉnh sửa cơ cấu bay.[69] Boeing đã giao toàn bộ KC-767J do Nhật Bản đặt hàng.[73] Trong khi đó, Aeronautica Militare nhận được chiếc KC-767A đầu tiên trong số bốn chiếc vào tháng 1 năm 2011.[156]
  • Các bản chuyển đổi – dòng 767 MMTT hay Multi-Mission Tanker Transport (Máy bay vận tải và tiếp nhiên liệu đa dụng) dựa trên mẫu 767-200ER, được Israel Aerospace Industries chỉnh sửa và sử dụng bởi Không quân Columbia (Fuerza Aérea Colombiana).[157] Năm 2013, Không quân Brasil đặt hàng IAI hai chiếc 767-300ER chuyển đổi thành mẫu vận chuyển nhiên liệu cho chương trình KC-X2 của mình.[158]

Các mẫu ngừng phát triển

767-400ERX

Năm 2000, Boeing chào bán mẫu 767-400ERX, phiên bản tầm bay xa của -400ER. Mẫu máy bay được giới thiệu cùng thời điểm với mẫu 747X và sử dụng những động cơ tương tự như 747X – Engine Alliance GP7000Rolls-Royce Trent 600.[159] Nhà sản xuất cho biết mẫu máy bay này có thể bay quãng đường dài 12.023 km.[160] Thời điểm đó, hãng Kenya Airways đặt ba chiếc 767-400ERX để bổ sung vào đội máy bay 767 của mình, nhưng khi Boeing ngừng phát triển mẫu này vào năm 2001, hãng chuyển sang đặt mua mẫu 777-200ER.[67][161]

E-10 MC2A

Northrop Grumman E-10 MC2A là dòng máy bay dựa trên mẫu 767-400ER, được dự tính sẽ thay thế cho dòng E-3 Sentry của Không quân Hoa Kỳ mang tên Northrop Grumman E-8 Joint STARS và dòng máy bay thu thập tín hiệu RC-135.[162] Mẫu E-10 MC2A sẽ được trang bị một hệ thống chỉ huy và cảnh báo hoàn toàn mới, ăngten quét mảng pha điện tử chủ động (Active electronically scanned array – AESA) có khả năng làm tê liệt máy bay hoặc pháo kích của đối phương.[163] Một chiếc 767-400ER được sử dụng để thử nghiệm tính tương thích hệ thống, tuy nhiên khi chương trình bị hủy bỏ vào tháng 1 năm 2009, nó được bán lại cho Bahrain và trở thành phương tiện vận chuyển VIP.[144]

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Boeing_767 http://www.timco.aero/content/articles/checking-76... http://www.heraldsun.com.au/businessold/ageing-jet... http://www.airforce-magazine.com/MagazineArchive/P... http://www.airforce-technology.com/news/news108637... http://atwonline.com/aircraft-amp-engines/boeing-c... http://atwonline.com/aircraft-engines-components/n... http://aviationweek.com/awin/e-10-radar-secretly-d... http://www.aviationweek.com/Blogs.aspx?plckPostId=... http://active.boeing.com/commercial/orders/display... http://www.boeing.com/assets/pdf/commercial/airpor...